Kỳ lân biển (monodon monoceros), còn được gọi là cá voi răng nanh, thuộc phân họ cá voi có răng. Các nhà khoa học WWF cho biết, quần thể loài này khoảng 80.000 con trưởng thành, được xếp vào loại “Gần nguy cấp (NT)” trong Sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Ngoài việc bị đe dọa bởi băng ở Biển Bắc đang co lại, kỳ lân biển còn có nguy cơ va chạm với các giàn khoan khai thác và khai thác dầu khí ở Bắc Cực và với các tuyến đường vận chuyển.
Kỳ lân biển là con gì?
Kỳ lân biển tên tiếng Anh là narwhal hoặc narwhale, tên khoa học là Monodon monocerus. Đây là một loài cá voi cỡ trung bình, chúng nổi tiếng với hình dáng như có một chiếc sừng dài xoắn ốc trước đầu, điều này khiến nhiều người liên tưởng đến những con kỳ lân trong thần thoại. Đây cũng là nguyên nhân khiến chúng có tên là kỳ lân biển.
Từ narwhal xuất phát từ tiếng Bắc Âu. Trong đó, nar có nghĩa là xác chết, kết hợp với whal có nghĩa là cá voi. Kỳ lân biển có tên này bắt nguồn từ màu xám trắng trên đốm của cá voi khiến chúng có phần giống với một xác chết bị chết đuối.
Đối với tên khoa học của kỳ lân biển, Monodon monocerus xuất phát từ cụm từ Hy Lạp có nghĩa là “một răng một sừng”. Vì sao là một răng một sừng thì mời các bạn tiếp tục khám phá những funfact thú vị về “chiếc sừng” của kỳ lân biển sau.
Bộ phận có hình dáng như chiếc sừng của kỳ lân biển thật ra là một chiếc răng đặc biệt. Đây là một chiếc răng nanh phát triển xoắn ốc và nhô dài ra, tương tự như ngà voi. Một con kỳ lân biển đực chỉ có duy nhất một chiếc ngà dài ra như vậy. Chiếc ngà phát triển trong suốt cuộc đời của kỳ lân biển và đạt chiều dài từ 1,5 đến 3,1 m với trọng lượng khoảng 10 kg.
Mô tả vè loài kỳ lân biển
Kỳ lân biển là loài cá cỡ trung bình. Đối với cả hai giới, kích thước cơ thể có thể dao động từ 3,95 đến 5,5 m; con đực có chiều dài trung bình là 4,1 m, lớn hơn một chút so với con cái, với chiều dài trung bình khoảng 3,5 m. Trọng lượng cơ thể của kỳ lân trưởng thành dao động từ 800 đến 1600 kg.
Chúng có phần da lưng màu sẫm với nhiều đốm nâu và có phần bụng màu trắng sáng. Màu da sẫm, tối màu khi mới sinh ra. Và ngày càng nhạt màu hơn khi chúng càng lớn hơn. Các mảng trắng phát triển trên phần bụng và ở cơ quan sinh dục của chúng ở tuổi trưởng thành. Màu da của những con kỳ lân biển già gần như trắng tinh. Kỳ lân biển không có vây lưng. Có thể là sự tiến hóa để thích ứng với việc bơi dễ dàng dưới các lớp băng tuyết. Đốt sống cổ thẳng, giống như những loài động vật có vú trên đất liền thay vì được hợp nhất với nhau như hầu hết các loài cá voi.
Đặc điểm dễ nhận biết nhất của loài kỳ lân đực là một chiếc năng dài mọc lên từ hàm trên và vượt qua môi tạo thành hình xoắn ốc. Nanh phát triển trong suốt cuộc đời, đạt chiều dài khoảng 1,5 đến 3,1 m; rỗng và nặng khoảng 10 kg. Với tỉ lệ 1:500, cứ 500 con đực thì có một con có hai nanh. Chỉ có khoảng 15% số lượng con cái phát triển nanh. Mà thường nhỏ hơn so với con đực và ít được chú ý hơn. Nanh là cơ quan cảm giác với hàng triệu cấu trúc thần kinh. Chúng được sử dụng để giúp xác định vị trí của con mồi và thể hiện sự thống trị của con đực. Các nền văn hóa bản địa cho rằng, những chiếc ngà của chúng có sức mạnh kỳ diệu.
Tập tính của chúng là gì?
Kỳ lân biển có thể lặn 1500 m và ở dưới nước trong vòng 25 phút trước khi chúng nổi lên. Chúng thường di chuyển và ăn trong các nhóm có từ 2 đến 10 cá thể. Nhưng đôi khi tụ tập lại trong đàn hàng trăm, thậm chí hàng ngàn con khi có nhiều thức ăn. Kỳ lân di chuyển theo mùa, trở về khu vực ưa thích mỗi năm. Vào mùa đông, chúng thường di cư về phía nam. Nơi có vùng nước nông gần bờ biển để tìm kiếm thức ăn. Và vào mùa hè, chúng lại trở về phía bắc đến các vùng nước sâu phủ đầy băng tuyết.
Chúng sử dụng sóng âm để điều hướng và săn lùng. Chúng phát ra tiếng kêu và tiếng huýt sáo sẽ vọng lại và được phân tích ở khu vực melon hoạt động như một ống kính âm thanh.
Chế độ ăn có gì đặc biệt?
Chúng là những kẻ săn mồi đặc biệt, chúng ăn cá bơn Greenland, mực, tôm và cá tuyết bắc cực. Chúng ăn rất nhiều trong suốt quá trình di cư.
Sinh sản như thế nào?
Con đực có tuổi trưởng thành từ 11 đến 13 tuổi, khi đó chúng dài khoảng 3,9 m. Con cái trưởng thành sớm hơn một chút, từ 5 đến 8 tuổi. Khi đó chúng dài khoảng 3,4 m.
Mùa giao phối của kỳ lân biển từ tháng 3 đến tháng 5. Quá trình mang thai kéo dài khoảng 15,3 tháng. Và con non được sinh ra vào thời gian từ tháng 7 đến tháng 8 năm sau.
Kỳ lân con duy nhất được sinh ra và hoàn toàn phụ thuộc vào mẹ. Kỳ lân nuôi con bằng sữa từ 12 đến 20 tháng. Con non bơi rất gần mẹ để học tất cả các kỹ năng cần thiết để có thể sống một cuộc sống độc lập.
Phân bố ở đâu?
Kỳ lân biển có không gian phân bố địa lý hẹp, chủ yếu ở khu vực Đại Tây Dương của Bắc Cực. Từ Trung Canada về phía đông đến Greenland và phía Bắc của Nga. Chúng chiếm lĩnh các vùng biển Bắc Cực của Canada, Na Uy, Greenland và Nga.
Vào mùa đông, giữa tháng 11 và tháng 3, hầu hết các kỳ lân, khoảng 70.000 cá thể di cư đến vình Baffin. Và eo biển Davis nằm giữa Canada và Greenland và ở đó trong vòng 6 tháng. Các nhóm khác dàng mùa hè của mình trong vịnh hẹp dọc theo đảo East Baffin; vịnh Hudson, phía Tây và Đông Greenland. Quá trình di chuyển của chúng kéo dài khoảng hai tháng.
Những thông tin thêm về loài Kỳ Lân Biển
- Kỳ lân biển là một trong những động vật Bắc Cực dễ bị đe dọa tính mạng nhất. Với biến đổi khí hậu do thu hồi độ bao phủ của băng trong môi trường sống của chúng ở khu vực phía bắc.
- Kỳ lân biển và cá voi trắng là họ hàng thân thiết.
- Không có con kỳ lân biển nào bị nuôi nhốt. Vào những năm 60 và 70, đã có một số nỗ lực trong việc duy trì điều kiện nuôi nhốt chúng nhưng tất cả đã chết trong vòng vài tháng.
Cảm ơn bạn đã đọc thông tin trên của wxiztv.com. Hãy xem tiếp những hình ảnh thú vị về loài động vật này dưới đây nhé!